triết lý kinh doanh của người việt
Người lãnh đạo của tổ chức luôn sáng tạo, mạo hiểm và nhìn xa trông rộng. Nhân viên trong tổ chức là những cá nhân chấp nhận rủi ro, đổi mới, tự do và độc đáo. Đặc điểm gắn kết mọi người là sự cam kết và sự đổi mới, phát triển. Chiến lược tập trung của tổ chức là sự sáng tạo, tiếp thu các nguồn lực mới và tạo ra các thách thức mới.
Khoảng 50 năm trước, Sài Gòn nổi lên một vị đại gia tài giỏi khiến bao người ngưỡng mộ. Ông tên Trấn Thành - một doanh nhân người Việt gốc Hoa. Ông là chủ của hãng bột ngọt Vị Hương Tố được sản xuất trong nước, đánh bại nhiều nhãn hiệu bột ngọt đình đám của nước ngoài thời bấy giờ.
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Trong hoạt động kinh tế, mặt trận cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn như cung - cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xi nghiệp, từng công ty và tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng
Triết lý kinh doanh TẦM NHÌN " NGS nỗ lực trở thành doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam, cung cấp các giải pháp - dịch vụ thông minh; đem lại giá trị lớn và phù hợp nhất cho khách hàng." SỨ MỆNH
Triết lý kinh doanh GoGreen VPGD: Cụm 6, Xã Long Xuyên, Huyện Phúc Thọ, Thành phố hà Nội, Việt Nam Hotline: 0981.839.666 * Lưu ý: Hiệu quả của sản phẩm có thể tùy thuộc vào cơ địa của mỗi người.
Ich Bin Hübsch Und Trotzdem Single. Nhà đầu tư huyền thoại Ray Dalio Ảnh Bridgewater AssociatesTrong một hội nghị đầu tư gần đây do Bloomberg tổ chức, nhà đầu tư huyền thoại Ray Dalio đã cảnh báo về một "tình huống rủi ro" đang hiện hữu với nền kinh tế Mỹ. Đáng chú ý, Ray Dalio cũng từng đưa ra cảnh báo vào năm 2007 về nguy cơ 'bong bóng' của thị trường bất động sản ở Mỹ và dự đoán kết quả tồi năm 2008, qua quỹ phòng hộ Bridgewater mà ông sáng lập, tiên đoán của ông về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã trở thành hiện thực, khi hệ thống tài chính toàn cầu chìm trong một cuộc suy thoái nghiêm Ray Dalio là ai?Ray Dalio là nhà sáng lập Bridgewater Associates, một trong những quỹ phòng hộ lớn nhất thế giới với số vốn ước tính lên tới 130 tỷ USD tính đến tháng 6 năm 2022. Ông được xếp vào danh sách những người có ảnh hưởng lớn nhất thế giới trong nhiều năm. Sự nghiệp lẫy lừng của ông được biết đến với câu nói "Hãy đắm mình vào thị trường, hãy sai lầm một vài lần...".Bên cạnh thành công đáng kể trong lĩnh vực tài chính, Ray Dalio cũng đã trải qua những thất bại, sai lầm và khó khăn trong sự nghiệp của mình. Ông đã phải đối mặt với tình trạng túng quẫn, buộc phải sa thải toàn bộ nhân viên và vay mượn USD từ cha để đáp ứng các chi phí sinh hoạt gia là ví dụ điển hình cho một tỷ phú tự thân trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán đi lên từ bàn tay Thomas Dalio sinh ra vào năm 1949 tại khu phố Jackson Heights của Queens, New York. Ông lớn lên trong một khu vực trung lưu ở Long Island. Ngay từ khi mới 12 tuổi, Dalio đã bắt đầu tham gia vào thị trường chứng khoán bằng số tiền tiết kiệm được từ công việc nhặt bóng golf, và ông đã đầu tư vào cổ phiếu của Northeast đã miêu tả khoản đầu tư đầu tiên của mình như sau "Đó là một công ty duy nhất mà tôi từng nghe được bán với giá dưới 5 USD/cổ phiếu. Tất nhiên, đó là một lý do ngu ngốc, nhưng may mắn thay, công ty đó đang trên bờ vực phá sản và được mua lại, khiến giá trị cổ phiếu tăng lên ba lần." Sự may mắn ban đầu đó đã đặt Ray lên con đường trở thành một trong những nhà đầu tư thành công nhất trong thời của tiếp tục tích lũy khoản thu nhập nhỏ từ việc nhặt bóng golf và các công việc làm thêm khác như giao báo và cắt cỏ để đầu tư vào thị trường chứng khoán trong những năm đầu. Ông đã chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn tại Đại học Stanford rằng, "những năm 1960, thị trường chứng khoán là thứ “nóng” chưa từng thấy”.Vào thời gian học trung học, Dalio tỏ ra không mấy quan tâm đến việc học. Điểm trung bình của ông ở trường chỉ đạt mức C, đủ để Dalio được nhận vào Đại học Long Island. Tuy nhiên, tại đây, ông có cơ hội tập trung vào lĩnh vực tài chính - một môn học thực sự gây hứng thú cho ông, và Dalio đã học rất xuất khi tốt nghiệp đứng đầu lớp vào năm 1971, Dalio tiếp tục theo đuổi đam mê nghiên cứu về tài chính chứng khoán tại Trường Kinh doanh Harvard, nơi ông nhận bằng MBA vào năm sau khi rời Harvard, chàng trai trẻ Dalio đã nhận được việc làm đầu tiên ở Phố Wall tại một công ty có tên là Shearson Hayden Stone. Ở đây, ông làm bạn với các hợp đồng về hàng hóa nông nghiệp, hướng dẫn cho những người chăn nuôi gia súc về cách phòng ngừa rủi ro cho công việc kinh doanh của họ. Vào đêm giao thừa năm 1974, sau một cuộc cãi vã do rượu, Dalio đã đấm người quản lý của mình. Kết quả, ông đã chấm dứt hợp đồng với Shearson. Tuy nhiên, Dalio đã thuyết phục một số khách hàng nông nghiệp thuê ông làm cố vấn và từ căn hộ hai phòng ngủ của mình ở New York, ông thành lập công ty Bridgewater tại bàn làm việc của mình vào đầu những năm 1980 Ảnh những ngày đầu của Bridgewater, Ray đã đóng vai trò tư vấn và quản lý tích cực các khoản đầu tư của các nhà đầu tư tổ chức, đặc biệt là trên thị trường hàng hóa và thị trường kỳ cũng chia sẻ suy nghĩ đầu tư của mình qua bài bình luận nghiên cứu hàng ngày có tên "Bridgewater Daily Observations", được gửi cho khách hàng qua thời gian, chất lượng của nghiên cứu này đã thu hút quỹ tổ chức đầu tiên của Bridgewater trực tiếp quản lý một tài khoản trị giá 5 triệu USD từ Ngân hàng Thế giới vào năm thời gian, chất lượng của Daily Observations ngày càng được cải thiện và thu hút sự quan tâm của các tổ chức đầu tư, dẫn đến Bridgewater được quản lý trực tiếp quỹ đầu tư đầu tiên vào năm 1985 - quản lý một tài khoản trị giá 5 triệu USD từ Ngân hàng Thế giới, điều này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của công nay, Daily Observations vẫn là một trong những phân tích thị trường được các nhà đầu tư và nhà hoạch định chính sách trên toàn cầu tìm kiếm nhiều sự lãnh đạo của Ray, Bridgewater đã trở thành quỹ phòng hộ lớn nhất thế giới, mang lại lợi nhuận cho khách hàng vượt trội so với bất kỳ quỹ phòng hộ nào khác. Những thành công này đến từ sự sáng tạo trong cách tiếp cận đầu tư và văn hóa độc đáo của Bridgewater. Phương pháp đầu tư hấp dẫn của công ty đã khiến tạp chí Investment Director so sánh Ray với Steve Jobs trong một bài báo có tựa đề "Ray Dalio Steve Jobs của thế giới đầu tư?".Ông được tạp chí TIME vinh danh là một trong “ 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới” năm 2012 vì tác động mà tư duy của ông đã ảnh hưởng lên các chính sách kinh tế vĩ mô toàn cầu. Năm 2016, Tạp chí Fortune xếp Bridgewater ở vị trí thứ 5 của danh sách “công ty tư nhân quan trọng nhất ở Mỹ”.Triết lý đầu tư của Ray DalioGiống như George Soros, Dalio là một nhà đầu tư vĩ mô toàn cầu, tìm kiếm lợi nhuận từ việc dự đoán các xu hướng kinh Dalio cho rằng, "Mọi thứ trong nền kinh tế hoạt động như một cỗ máy và có mối liên hệ với nhau", khi nói về phương pháp tiếp cận thị khi nhiều người cho rằng thành công của Bridgewater đến từ lối suy nghĩ độc đáo của Ray, ông lại cho rằng thành công không phải bởi ông có gì đặc biệt hơn người khác, mà là do ông luôn tuân thủ một nguyên tắc tiếp cận trong kinh doanh mà bất kỳ ai cũng có thể áp pháp tiếp cận này giúp ông hiểu rõ cách hoạt động thực tế và phát triển nguyên tắc để đối phó hiệu quả. Một trong những nguyên tắc quan trọng đó là Để thành công, bạn cần làm việc tốt với người khác. Yếu tố quyết định sự thành công của một nhóm người là văn hóa mà họ xây ty của Ray Dalio hoạt động dựa trên khái niệm "chế độ nhân tài ý tưởng". Điều này có nghĩa là những ý tưởng xuất sắc nhất sẽ được thừa nhận và thực hiện, không phân biệt vị trí trong hệ thống cấp bậc của nhân viên. Mặc dù mọi người đều được khuyến khích tham gia vào cuộc trò chuyện, chế độ nhân tài ý tưởng đặc biệt coi trọng ý kiến của những người có chuyên môn sâu về chủ đề hiện khía cạnh quan trọng khác trong triết lý của Dalio và văn hóa của Bridgewater là khái niệm "sự minh bạch triệt để". Điều này liên quan đến việc ghi lại và chia sẻ tất cả các cuộc họp và phỏng vấn trong công ty, hạn chế chính trị hóa trong môi trường làm việc, loại bỏ các bất đồng bí mật và các chương trình nghị sự mâu thuẫn. Theo quan điểm của Dalio, sự minh bạch triệt để này tạo ra một môi trường trung thực tuyệt đối, kết hợp với sự cởi mở, đã trở thành những yếu tố quan trọng trong thành công của đội ngũ 1991, Bridgewater Associates ra mắt quỹ phòng hộ Pure Alpha, sau này đã trở thành quỹ hàng đầu trong hệ sinh thái của Bridgewater. Năm 2010, quỹ Pure Alpha đã ghi nhận mức tăng trưởng 45% tương đương 15 tỉ USD nhiều hơn cả lợi nhuận gộp của Google, Amazon, Yahoo khi với các nhà đầu tư, với tư cách là một nhà đầu tư đại tài, một huyền thoại của phố Wall, Ray Dalio cho rằng, việc quan trọng đối với mọi nhà đầu tư đó là xây dựng một danh mục bất chấp thị trường. Phân bổ tài sản, “đi tiền” hợp lý và chọn ra các cơ hội đầu tư tốt nhất, theo Dalio, kết quả đầu tư sẽ không bị ảnh hưởng tiêu cực kể cả khi thị trường đi xuống./.Tổng hợpNhiên Nhiên
Quyền lợi khách hàng luôn là tiêu chí hàng đầu của HeboraHebora là một thương hiệu làm đẹp và chăm sóc sức khỏe từ Nhật Bản. Trong kinh doanh, thương hiệu đề cao sự uy tín mỗi sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tốt nhất và phù hợp với người tiêu dùng, chất lượng đảm bảo và phải an toàn với người sử tinh thần đó, Hebora nỗ lực tuân thủ những tiêu chuẩn về sản phẩm, quy trình sản xuất do Chính phủ Nhật Bản ban hành. Sản phẩm của Hebora đạt tiêu chuẩn kiểm định an toàn của Bộ Y tế Nhật Bản và nhận được chứng nhận lưu hành trên thị trường. Ở Việt Nam, Hebora hiện đang được nhập khẩu chính ngạch và do Công ty TNHH Behe Việt Nam chịu trách nhiệm phân gần 6 năm hoạt động, bằng các sản phẩm chất lượng, Hebora đang dần trở thành một thương hiệu được yêu trong hỗ trợ cải thiện các vấn đề về sắc đẹp và sức liên tục nghiên cứu và cải tiến để phù hợp với khách hàngSản phẩm của Hebora được Bộ Y tế Nhật Bản, Bộ Y tế Việt Nam chứng nhận đủ điều kiện lưu hành trên thị trườngTuy nhiên, hiện trên thị trường Việt Nam đang xuất hiện các sản phẩm giả, nhái với thương hiệu Hebora để trục lợi người tiêu diện Công ty TNHH Behe Việt Nam cho biết “Giữ vững quan điểm theo triết lý kinh doanh, lợi ích của khách hàng phải được đặt lên đầu, Hebora đã và đang tích cực hợp tác cùng các cơ quan chức năng để ngăn chặn triệt để vấn nạn này, giúp khách hàng có thể yên tâm trải nghiệm các dòng sản phẩm của Hebora. Song song đó, Hebora liên tục đưa ra những thông tin cảnh báo, cũng như những hướng dẫn người dùng nhận biết hàng giả, hàng nhái”. Các đặc điểm nhận dạng Hebora Collagen Enrich thật và giả“Dù hành vi làm giả, làm nhái sản phẩm Hebora của các nhóm đối tượng này ngày càng trở nên tinh vi, khách hàng hoàn toàn có thể dễ dàng phân biệt hàng thật - hàng giả bằng mắt thường, hoặc xác thực nhanh thông qua tem kiểm tra trên mỗi sản phẩm”, đại diện Công ty TNHH Behe Việt Nam nói ra, để tránh mua phải các sản phẩm giả, kém chất lượng, Hebora khuyến cáo khách hàng chỉ nên mua hàng qua các kênh phân phối và đại lý ủy quyền chính thức của Hebora. Website là trang chính thức của Hebora tại thị trường Việt hiểu thông tin chi tiết sản phẩm và cách phân biệt hàng giả - hàng chính hãng Hebora tạiCông ty TNHH Behe Việt NamVPGD Tầng 3, Tòa nhà văn phòng Lidaco - Vinaconex 7, số 19 Đại Từ, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà 0901669112 - 19008912Nguồn Công ty TNHH Behe Việt Nam
ĐẠI HỌC THĂNG LONGKHOA KINH TẾ - QUẢN LÍBÀI TIỂU LUẬNMÔN VĂN HÓA DOANH NGHIỆP VÀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANHPHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TRIẾT LÝKINH DOANH CỦA KENTUCKY FRIEDCHICKEN CORPORATION**Sinh viên thực hiện Nhóm Light Đinh Huệ Linh A** 2. Trần Thế Tùng A 3. Trần Thu Phương A 4. Đinh Trung Hiếu AGV chấm 1 GV chấm 2TS. Trương Đức Thao TS. Lê Huyền TrangMục lục PHẦN 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TRIẾT LÝ KINH DOANH......................... 1. Khái niệm của triết lý kinh doanh................................................................ 1. Đặc điểm của triết lý kinh doanh.................................................................. 1. Vai trò của triết lý kinh doanh....................................................................... 1. Nội dung của triết lý kinh doanh................................................................... của doanh nghiệp................................................................................................ Sứ mệnh và tầm nhìn của doanh nghiệp Bản tuyên bố lý do tồn tại Hệ thống các mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp............................... Hệ thống các giá trị của doanh nghiệp............................................... FRIED CHICKEN CORPORATION TẬP ĐOÀN KFC...................................... PHẦN 2. THỰC TRẠNG TRIẾT LÝ KINH DOANH CỦA KENTUCKY 2. Giới thiệu về Tập đoàn KFC.......................................................................... Vài nét về người sáng lập - ông Harland Sanders............................... Vài nét về Tập đoàn KFC...................................................................... Lịch sử hình thành của Tập đoàn KFC............................................... doanh TNHH KFC Việt Nam............................................................................ Lịch sử hoạt động của thương hiệu KFC tại Việt Nam Công ty liên 2. Thực trạng Triết lý kinh doanh của Tập đoàn KFC.................................. Sứ mệnh, tầm nhìn của tập đoàn KFC............................................... Mục tiêu và mục đích của KFC.......................................................... Các giá trị cốt lõi của KFC................................................................. 2. Đánh giá........................................................................................................ ký kinh doanh của Tập đoàn KFC..................................................................... Những ưu điểm và những thành tựu đạt được sau khi áp dụng triết KFC................................................................................................................... Một vài hạn chế sau khi đã áp dụng triết lý kinh doanh của Tập đoàn So sánh với đối thủ cạnh tranh – Chuỗi đồ ăn nhanh Lotteria......... DOANH CỦA CÁC CÔNG TY Ở VIỆT NAM QUA TÌNH HUỐNG CỦA KFC PHẦN 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY TRIẾT LÝ KINH Danh mục bảng biểu, hình ảHình 2. Harland Sanders 1890 – 1980......................................................................Hình 2. Cửa hàng đầu tiên của KFC tại Salt Lake City, Utah on August 12, 2002.....Hình 2. Logo KFC............................................................................................... YĐồ thị 2. Số người bình luận về thương hiệu...........................................................Đồ thị 2. Số người bình chọn về đồ ăn tại 2 thương hiệu 2Bảng 2. Bảng doanh thu của KFC từ năm 2001 – 2008............................................Bảng 2. Đánh giá thái độ phục vụ của 2 thương hiệu................................................Lời mở đầu Kinh doanh là hoạt động cơ bản của con người, xuất hiện cùng với hàng hóa và thị trường. Càng ngày con người càng nhận ra rằng kinh doanh không phải chỉ có các yếu tố thuộc về kinh tế mà một bộ phận quan trọng nữa của nó đó là các yếu tố văn hóa một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lâu dài đâu phải chỉ nhờ việc cạnh tranh, cung cấp hàng hóa dịch vụ mà còn ở cách thức mà doanh nghiệp đó cung ứng tới khách hàng, cách mà doanh nghiệp tổ chức nên bộ máy nhân sự... Hai yếu tố kinh tế và văn hóa luôn tác động qua lại và bổ sung cho nhau tạo nên một doanh nghiệp hoàn tiêu chính của một doanh nghiệp là kinh doanh để kiếm lời. Còn việc kinh doanh như thế nào, kinh doanh đem lại lợi ích và giá trị cho ai thì đó là vấn đề của văn hóa doanh nghiệp. Tư tưởng tinh thần văn hóa doanh nghiệp được thể hiện thông qua triết lý kinh doanh. Đó là một hệ thống các giá trị cốt lõi có vai trò như kim chỉ nam định hướng các hoạt động của mỗi doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh quy chiếu trong mình những giá trị mang tính chiến lược trong hoạt động của doanh nghiệp mà trong quá trình thực hiện theo hệ triết lý này, cả khách hàng, đối tác và những cá nhân trong tổ chức sẽ nhận thức ra những “đặc sắc”, “độc đáo” và điều tạo nên sự khác biệt cho doanh đoàn KFC kinh doanh lĩnh vực nhà hàng thức ăn nhanh hoạt động theo hình thức nhượng quyền thương mại. Bên cạnh những mục tiêu về con số thực tế, KFC xây dựng được cho mình hệ thống triết lí kinh doanh chuẩn mực để tạo nên thành công vang dội như ngày nay. Đây cũng là lí do vì sao nhóm tác giả chọn Tập đoàn KFC trong đề tài lần tiểu luận được trình bày theo bố cục 3 phần rõ ràng Phần 1 Cơ sở lý thuyết về triết lý kinh doanh. Phần 2 Thực trạng triết lý kinh doanh của Kentucky Fried Chicken Corporation Tập đoàn KFC. Phần 3 Một số giải pháp nhằm phát huy triết lý kinh doanh của các công ty ở Việt Nam qua tình huống của KFC. Triết lý kinh doanh là cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp, tạo ra phương thức phải triển bền vững cho doanh nghiệp Có nhiệm vụ xác định sứ mệnh, các giá trị cốt lõi và phương châm hoạt động, quản lý của doanh nghiệp nên triết lý kinh doanh trở thành yếu tố quan trọng nhất trong 5 nhân tố cấu thành văn hóa doanh nghiệp. Muốn tồn tại và phát triển mỗi tổ chức đều phải xây dựng cho mình mục tiêu mà mình muốn vươn tới cũng như con đường riêng để đi đến mục tiêu đó như thế nào, và từ đó hình thành nên hệ thống chiến lược của tổ chức. Sứ mệnh và giá trị cốt lõi có ý nghĩa định hướng sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, hướng mọi thành viên trong doanh nghiệp tới một mục đích lý doanh nghiệp là cái ổn định, rất khó thay đổi, nó phản ánh cái tinh thần – ý thức của doanh nghiệp ở trình độ bản chất, có tính khái quát, cô đọng và hệ thống hơn so với các yếu tố ý thức đời thường và tâm lý xã hội. Một khi đã phát huy được tác dụng thì triết lý doanh nghiệp trở thành ý thức lý luận và hệ tư tưởng chung của doanh nghiệp, bất kể có sự thay đổi về lãnh đạo. Do đó triết lý doanh nghiệp là cơ sở bảo tồn phong thái và bản sắc văn hóa của doanh nghiệp. Akio Morita, cựu chủ tịch công ty Sony nhận xét “Vì công nhân viên làm việc với công ty trong một thời gian dài cho nên họ thường kiên trì giữ vững quan điểm của họ. Lý tưởng của công ty không hề thay đổi. Khi tôi rời công ty để về nghỉ, triết lý của công ty Sony vẫn tiếp tục tồn tại”. Vì vậy, triết lý kinh doanh trở thành nền tảng của văn hóa doanh lý doanh nghiệp ít hiện hữu với xã hội bên ngoài; nó là tài sản tinh thần của doanh nghiệp, là cái tinh thần “thấm sâu vào toàn thể doanh nghiệp, từ đó hình thành một sức mạnh thống nhất” tạo ra một hợp lực hướng tâm chung. Không phải ngẫu nhiên mà ở Nhật Bản, khoảng 200 ngàn thành viên của hãng Matsushita Electric vẫn đọc và hát về triết lý của công ty vào mỗi ngày làm việc; họ cảm nhận được lý tưởng của công ty thấm sâu vào tim óc họ, làm cho họ làm việc nhiệt tình phấn khích vì những mục tiêu cao cả. Do vậy, triết lý doanh nghiệp là công cụ tốt nhất của doanh nghiệp để thống nhất hành động của người lao động trong một sự hiểu biết chung về mục đích và giá lý doanh nghiệp là cốt lõi của phong cách – phong thái của doanh nghiệp. Triết lý doanh nghiệp góp phần tạo lập nên văn hóa doanh nghiệp, là yếu tố có vai trò quyết định trong việc thúc đẩy và bảo tồn nền văn hóa này. Qua đó, nó góp phần tạo nên một nguồn nội lực mạnh mẽ từ doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh là công cụ định hướng và cở sở quản lý chiến lược, làm nên thành công của doanh nghiệpTheo Peter và Waterman, chính triết lý kinh doanh các ông gọi là hệ thống giá trị mang tính định tính làm cho các công ty thành công hơn về tài chính so với những mục tiêu định lượng lợi nhuận, thu nhập trên mỗi cổ phiếu, chỉ tiêu tăng trưởng, nó bù đắp cho chỗ yếu, chỗ bất lực của cơ cấu tổ chức, của kế hoạch trước những cơ hội xuất hiện tình cờ, khó đoán trước và không thể dự đoán chính xác. “Một khi triết lý sống của công ty đã thâm nhập vào toàn bộ công nhân viên chức thì lúc đó công ty có một sức mạnh lớn và sự mềm dẻo hơn trong kinh doanh” Morita. Tính định tính, sự trừu tượng của triết lý kinh doanh cho phép doanh nghiệp có sự linh hoạt nhiều hơn trong việc thích nghi với môi trường đang thay đổi và các hoạt động bên trong. Nó tạo ra sự linh động trong việc thực hiện, sự mềm dẻo trong kinh doanh. Nó chính là một hệ thống các nguyên tắc tạo nên cái “dĩ bất biến ứng vạn biến” của doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh có vai trò định hướng, là một công cụ để hướng dẫn cách thức kinh doanh phù hợp với văn hóa của doanh nghiệp. Nếu thiếu một triết lý doanh nghiệp có giá trị thì chẳng những tương lai lâu dài của doanh nghiệp có độ bất định cao mà ngay cả trong việc lập các kế hoạch chiến lược và dự án kinh doanh của nó cũng rất khó khăn vì thiếu một quan điểm chung về phát triển giữa các tầng lớp, bộ phận của tổ chức doanh nghiệp. Sự trung thành với triết lý kinh doanh còn làm cho nó thích ứng với những nền văn hóa khác nhau ở các quốc gia khác nhau đem lại thành công cho các doanh với tầng lớp cán bộ quản trị, triết lý doanh nghiệp là một văn bản pháp lý và cơ sở văn hóa để họ có thể đưa ra các quyết định quản lý quan trọng, có tính chiến lược, trong những tình huống mà sự phân tích kinh tế lỗ - lãi vẫn chưa giải quyết được vấn đề. Vì vậy, trong các công ty xuất sắc của Mỹ như IBM, Intel... các nhà quản trị đều có thói quen đối chiếu triết lý doanh nghiệp với các dự định hành động cũng như các kế hoạch chiến lược trong giai đoạn xây dựng. Họ nhận thức được rằng nếu làm trái với sứ mệnh và giá trị của công ty thì kế hoạch sẽ bị thất bại và họ sẽ bị xử lý kỷ luật rất nặng. Ví dụ như ở HP các cán bộ quản lý thường dựa vào triết lý kinh doanh để phân tích, lựa chọn các khả năng trước khi đưa ra một quyết định kinh doanh. Tại công ty Sony, vào thời kỳ mới ra đời, Ibika đã chế tạo thành công chiếc radio thu song ngắn. Sản phẩm bán chạy, nhiều người đề nghị ông mở rộng sản xuất mặt hàng này nhưng ông kiên quyết từ chối, vì ông tuân thủ triết lý kinh doanh của công ty là “tìm kiếm những điều mới lạ chưa từng thấy để phục vụ toàn thế giới” nên để thực hiện lý tưởng cao đẹp này, “chúng tôi không chỉ nhằm vào sản xuất radio không thôi”. Việc sáng chế ra những sản phẩm mới sau đó như máy thu thanh bỏ túi, tivi bán dẫn, đèn hình màu triniton, máy Walkman... đã chứng tỏ giới quản lý Sony đã trung thành với triết lý của mình và đã thành công với dụ Sứ mệnh của Vingroup là “Vì một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người Việt”; Sứ mệnh của Vinamilk là “Vinamilk cam kết mạng đến cho cộng đồng nguồn dinh dưỡng và chất lượng cao cấp hàng đầu bằng chính sự trân trọng, tình yêu và trách nhiệm cao của mình với cuộc sống con người và xã hội”...Tầm nhìn tập trung vào tương lai. Nó là nguồn cảm hứng và động lực. Nó thường không chỉ mô tả tương lai của doanh nghiệp mà còn mô tả tương lai của toàn ngành/ lĩnh vực doanh nghiệp đó đang kinh doanh. Nó thậm chí còn tạo ra xu thế ảnh hưởng tới sự phát triển chung của toàn xã phân biệt rõ giữa sứ mệnh và tầm nhìn, nhóm tác giả đưa ra ví dụ về công ty CP Kinh Đô như sau Tầm nhìn của Kinh Đô là “mang hương vị đến cho cuộc sống mọi nhà bằng những thực phẩm an toàn, dinh dưỡng, tiện lợi và độc đáo”. Sứ mệnh của họ “không ngừng sáng tạo mang lại những trải nghiệm mới lạ về hương vị cùng cam kết về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm...”Cách xác định tầm nhìn và sứ mệnh của Kinh Đô là khá rõ ràng. Với việc đưa ra tầm nhìn của doanh nghiệp, họ đã thoát khỏi hình ảnh một công ty bánh kẹo, mà là một doanh nghiệp thực phẩm với việc nhấn mạnh vào chất lượng sản những doanh nghiệp mới thành lập, đặt kế hoạch mới, chương trình mới để hoạch định dịch vụ của mình thì xây dựng tầm nhìn trước, vì nó sẽ dẫn dắt sứ mệnh và phần còn lại của kế hoạch chiến lược theo những doanh nghiệp đã thành lập thì đã có sẵn sứ mệnh, thường thì khi đó sứ mệnh sẽ dẫn dắt tầm nhìn và phần còn lại của kế hoạch chiến lược cho tương Hệ thống các mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp...............................Các mục tiêu cơ bản đề ra ngay từ đầu thường là các mục tiêu trung hạn và dài hạn của tổ chức. Phần này thể hiện những mong muốn cần đạt được trong kỳ hạn dài của những người sáng lập doanh nghiệp, nhà quản trị cấp cao cũng như các thành viên trong tổ chức. Mục tiêu lâu dài trong văn bản triết lý kinh doanh thường có vẻ gần gũi với nhiệm vụ của tổ chức hơn là những mục tiêu định lượng hoặc định tính thông thường trong các bản kế hoạch chiến lược hay kế hoạch tác nghiệp. Một số các mục tiêu dài hạn mà doanh nghiệp thường xem xét và đặt ra ngay từ đầu trong triết lý kinh doanh là Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường; Cải tiến và đổi mới, năng suất, khả năng sinh lời; Các nguồn lực của doanh nghiệp; Thành tích và thái độ của người lao động; Trách nhiệm xã theo quy mô hoạt động và những khả năng tiềm tàng, mục tiêu trong triết lý kinh doanh cần thích ứng với vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, điều này sẽ hạn chế tính phi thực tế trong triết lý kinh dụ Mục tiêu của tập đoàn Sony Phục vụ toàn thế giới; Cố gắng làm cho mọi người có thể cống hiến hết khả năng của mình; Là người đi tiên phong, khai phá con đường Hệ thống các giá trị của doanh nghiệp...............................................Giá trị của doanh nghiệp là niềm tin căn bản của những người làm việc trong doanh nghiệp, xác định thái độ của doanh nghiệp với những đối tượng người sở hữu, nhà quản trị, đội ngũ những người lao động, khách hàng và các đối tượng khác có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Những giá trị này bao gồm Giá trị cốt lõi Yếu tố quy định những chuẩn mực chung và có niềm tin lâu dài của một tổ chức Các nguyên lý hướng dẫn hành động, định hướng hành vi của tổ chức, có vai trò rất quan trọng trong nội bộ tổ chức Giá trị cốt lõi thường được gắn liền với tầm nhìn và sứ mệnh trong tuyên bố của doanh nghiệp, tập đoàn. Các giá trị cốt lõi rất có chiều sâu và đó là những giá trị cực kỳ quan trọng. Các giá trị này ít thay đổi theo các biến động của thị trường. Trong trường hợp khó khăn, doanh nghiệp có thể thay đổi mô hình kinh doanh nhưng không thay đổi hệ thống giá trị cốt lõi của mình. Một số các giá trị mà doanh nghiệp cần phải quan tâm hàng đầu là Những nguyên tắc của doanh nghiệp Lòng trung thành và cam kết Những hành vi ứng xử nội bộ Những hành vi ứng xử với xã hội, thị trường... Ví dụ 5 giá trị cốt lõi của Facebook là Tập trung vào ảnh hưởng; Chuyển động nhanh; Táo bạo; Cởi mở; Xây dựng giá trị xã nghĩ và thử nghiệm để tạo nên gia vị và nước sốt hoàn hảo cho món gà. Thập niên 30, Sander trở nên nổi tiếng khi kết hợp 11 loại thảo mộc và gia vị để tẩm ướp, tạo nên một món gà rán với hương vị đặc biệt chưa từng xuất hiện trước 1955, tự tin với chất lượng món gà rán của mình, ông tự phát triển và thành lập doanh nghiệp nhượng quyền thương hiệu. Xấp xỉ 10 năm sau, Sanders đã có hơn 600 franchise ở Mỹ và ở nay, Harland Sanders được biết đến là một doanh nhân và một nhà khởi nghiệp vô cùng nổi tiếng trong Văn hoá đại chúng Vài nét về Tập đoàn KFC......................................................................Hình 2. Cửa hàng đầu tiên của KFC tại Salt Lake City, Utah on August 12, 2002Nguồn history/news/8-facts-real-colonel-sanders-kfc KFC là chuỗi cửa hàng đồ ăn nhanh nổi tiếng trên toàn thế giới. KFC là công ty kinh doanh lĩnh vực nhà hàng thức ăn nhanh hoạt động theo hình thức nhượng quyền thương mại. Thương hiệu thuộc quyền sở hữu của công ty mẹ Yum! Brands và có trụsở chính tại Louisville, bang Kentucky, thuộc Hợp chủng Quốc Hoa Kì. Tính tới năm 2015 thì KFC đã sở hữu tổng 22621 cơ sở trên toàn thế giới. Doanh thu trong một năm của franchise lên tới 23 tỉ USD. Hiện tại, KFC vẫn là một trong những chuỗi nhà hàng fast food đang rất thịnh hành tại Việt Nam, cạnh tranh trực tiếp với những thương hiệu nổi tiếng khác như McDonald hay Lịch sử hình thành của Tập đoàn KFC...............................................Vào năm 1939, Harland Sanders cho ra đời công thức gà rán bí truyền của ông tới thực khách, bao gồm 11 loại gia vị và thảo dược trộn với nhau, tạo nên hương vị của món KFC truyền thống ngày năm 1950, do bị giải toả mặt bằng, Harland Sanders đã phải bán lại cơ nghiệp của ông ở Corbin, Kentucky. Tuy lúc này đã ở tuổi 65, Sanders vẫn không hề nản chí. Chỉ với số tiền đền bù ít ỏi, ông đã lên đường chu du khắp nước Mĩ để bắt đầu hành trình nhượng quyền thương hiệu và giới thiệu món gà rán của ông đến với mọi cách khác, Harland Sanders đã chu du khắp nước Mĩ để bán lại hình ảnh và công thức gà rán cho các chủ nhà hàng... Chỉ với giá 5 xu cho một con gà bán ra, những chủ nhà hàng này sẽ được quyền sử dụng hình ảnh và tên tuổi của ông Sanders, và đồng thời được học công thức bí truyền của ông. Vào năm 1952, Đại tá Sanders đã nhượng quyền thương hiệu thành công cho ông Pete Harman. Một chủ nhà hàng có tiếng tại South Salt Lake, bang Utah, Hoa tạo nên dấu ấn cho thương hiệu cũng như muốn phân biệt với các hãng gà rán khác thời bấy giờ. Sanders đã đổi sang sử dụng hoàn toàn cái tên Kentucky Fried Chicken cho thương hiệu của xỉ 10 năm sau, Sanders đã có tổng cộng hơn 600 franchise ở Mỹ và ở Canada, và tới năm 1964, ông đã bán cổ phần 2 triệu đô của mình trong công ty Mỹ cho một nhóm các nhà đầu tư, trong đó có John Y. Brown JR, người sau này trở thành thống đốc bang sự quản lý của người sở hữu mới, tập đoàn Gà Rán Kentucky đã phát triển một cách nhanh chóng. Công ty đã thực hiện cổ phần hóa ra công chúng vào năm 1966 và gia nhập thị trường chứng khoán New York vào năm 1969 và được mua lại bởi PepsiCo vào năm năm 1997 PepsiCo đã chuyển hệ thống nhà hàng thức ăn nhanh, bao gồm cả nhãn hiệu KFC, sang một công ty về nhà hàng độc lập, gọi là Tricon Global Restaurant. Ngày nay, Công ty còn được biết với tên gọi là tập đoàn Yum! là một tập đoàn nhượng quyền thương mại, vì vậy ở mỗi khu vực khác nhau, các công ty nhượng quyền KFC có thể xây dựng sứ mệnh và tầm nhìn khác nhau. Bên cạnh những cái riêng được chắt lọc từ văn hóa xã hội nơi KFC đặt chân đến, sứ mệnh và tầm nhìn của các khu vực vẫn giữ lại được hướng đi, viễn cảnh chung nhất của cả hệ thống KFC. Tầm nhìn của KFC tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương đó là “To be the leading integrated food services group in Asia Pacific region based on consistent quality products and exceptional customer-focused service.” Dịch Trở thành nhà dẫn đầu các chuỗi dịch vụ cung ứng thực phẩm đồ ăn nhanh dành cho mọi đối tượng khách hàng tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương, dựa trên những tiêu chí như những tiêu chí như sản phẩm đạt chất lượng tuyệt hảo, nhất quán và các dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt nhất Để hiện thực hoá tầm nhìn này, KFC đã tích cực biến mình trở thành một trong những chuỗi nhà hàng đồ ăn nhanh được ưa chuộng tại các nước khu vực thuộc hơn 5000 cửa hàng tại 1100 thành phố tại Trung Quốc, KFC đã và đang là một trong những chuỗi nhà hàng đồ ăn nhanh đang thống trị đất nước tỉ dân này. Là chuỗi nhà hàng Mĩ đầu tiên thâm nhập vào thị trường Trung Quốc, mở cửa hàng đầu tiên vào năm 1987. KFC đã dần trở thành một sự tượng trưng cho sự tăng trưởng kinh tế cho quốc gia này, và cũng đồng thời đóng vai trò như là một cầu nối với Thế giới với xã hội Trung trở thành món ăn truyền thống trong lễ Giáng sinh tại Nhật Bản, Trải qua gần 4 thập kỷ, những cửa hàng KFC tại Nhật Bản ngày càng tạo được nhiều dấu ấn với đông đảo thực khách. Cho đến ngày nay, món gà rán KFC đã trở thành món ăn không thể thiếu trong lễ Giáng sinh tại quốc gia Đông Á Chew, một tỷ phú người Singapore đã giới thiệu thương hiệu KFC đến với Việt Nam vào năm 1997. Mặc dù Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển vào thời bấy giờ, cộng với việc người Việt thực sự không mặn mà lắm với đồ ăn nhanh, khiến cho KFC bị thua lỗ trong suốt 7 năm liền. Nhưng với sự kiên trì và không bỏ cuộc của đội ngũ lãnh đạo. KFC hiện đã trở thành một trong những chuỗi nhà hàng fast food được ưa chuộng nhất Việt chỉ dừng lại ở đó, KFC còn tạo nên một cơn sốt trong làng ẩm thực Châu Á với các món ăn độc đáo, mới lạ như bánh Chizza, hay da gà tẩm bột chiên... Tầm nhìn của KFC tại Hoa Kỳ“Trở thành nhà bếp hàng đầu nước Mĩ, phục vụ những món ăn nhanh, ngon và vô cùng hấp dẫn cho các gia đình ít nhất mỗi lần một tuần.” Khác với thị trường Châu Á đang tăng trưởng mạnh, KFC tại nước Mĩ đang có dấu hiệu yếu kém và giảm sút trong vòng 1 thập kỷ qua. Tuy nhiên, KFC đã và đang lên kế hoạch để nhằm lấy lại vị trí dẫn đầu của mình, bao gồm việc đổi mới phong cách nhà hàng và chạy một chương trình Marketing mới. Cụ thể, KFC dự định sẽ huấn luyện lại toàn bộ đội ngũ nhân viên, bày trí lại các cơ sở, nhà hàng, và thực hiện các chiến dịch quảng cáo cả trên sóng truyền hình lẫn dù vậy, không thể phủ nhận KFC vẫn còn nhiều điểm hạn chế khi hoạt động tại Mĩ như thức ăn không đạt tiêu chuẩn, thái độ phục vụ của nhân viên vẫn còn thờ ơ. Và thêm vào đó là sự xuất hiện của các chuỗi nhà hàng fast food khác như McDonald hay Chick-fil-a, đã khiến KFC tụt hậu và dần bị bỏ lại phía sau. Chính những điều này đã khiến KFC phải mau chóng xem xét lại vị thế của mình trong thị trường Mĩ, và đưa ra phương án nhanh chóng và phù hợp để giành lại thị phần của họ.Thông qua 2 khu vực Mĩ và Châu Á, Thái Bình Dương, sứ mệnh của KFC muốn hướng tới đó chính là trở thành người tiên phong trong việc cung ứng chuỗi thực phẩm thức ăn nhanh dành cho mọi đối tượng khách hàng trên phạm vi toàn cầu. KFC đem đến cho người tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng tuyệt hảo, nhất quán. Đồng thời cung cấp các dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt nhất. Điểm đặc biệt của Tập đoàn KFC là cách họ đưa đến sứ mệnh của mình như một lời hứa chắc chắn là họ sẽ nỗ lực và chắc chắn sẽ làm được. Khác với tầm nhìn ở thì tương lai, ở hiện tại KFC muốn và sẽ làm rất nhiều điều cho những người có tầm ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của họ như khách hàng, đối tác và những nhân viên. Một số sứ mệnh mà một số công ty nhượng quyền KFC trên thế giới đã đưa ra đó là “To be the leader in western style quick service restaurants through friendly service, good quality food and clean atmosphere” Tạm dịch Trở thành người dẫn đầu trong lĩnh vực phục vụ thức ăn nhanh theo kiểu phương Tây thông qua dịch vụ thân thiện, thức ăn chất lượng cao và không gian trong lành thoáng đãng” “ To maximise profitability, improve shareholder value and deliver suitainable growth year after year” Tạm dịch Để tối đa hóa lợi nhuận, nâng cao giá trị cho cổ đông và tạo ra sự tăng trưởng bền vững cho năm sau “You keep employees longer, they are happier, they work better for you” Tạm dịch Bạn càng giữ nhân viên lâu, họ càng hạnh phúc, họ càng làm việc tốt hơn cho bạn ...hay Pizza Hut... đã thúc ép KFC tìm cách tiết kệm chi phí tạo ra sản phẩm chất lượng tối ưu làm hài lòng các khách hàng. Chiến lược của họ tập trung chuyển giao các hương vị cơ bản trên các tiêu chuẩn chung, lợi thế chung xây dựng đựơc của gà rán KFC và biến đổi, cung cấp những sản phẩm đa dạng, địa phương giữa các cửa hàng KFC trên toàn trên toàn thế giới nhận định họ cạnh tranh bằng sự khác biệt hóa với giá trị “Soul Food”, đóng lại thời kỳ những thức ăn nhanh có hại, nhàm chán và mở ra giai đoạn thức ăn nhanh có lợi cho sức khỏe, các bữa ăn có giá trị, có linh thức chủ yếu mà KFC thâm nhập trên toàn thế giới đó là franchise nhượng quyền. Và cho đến ngày nay KFC là một trong những công ty lớn nổi tiếng trên thế giới về việc nhượng quyền thương mại với hàng loạt tiêu chuẩn khắt khe nhằm xây dựng những chuỗi nhà hàng đồng nhất và chất lượng. Tuy nhiên, tùy theo từng nơi, vùng mà KFC thâm nhập thì cách thức họ có thể thay đổi. KFC thâm nhập thị trường toàn cầu lựa chọn hình thức nhượng quyền thương hiệu franchise với những chuỗi cửa hàng rộng khắp toàn cầu đồng nhất nhưng với các món ăn nhanh kiểu Mỹ xen trong hương vị, danh sách thực đơn đặc biệt mang đậm hương vị là của quê hương địa phương nơi mà KFC có muốn tăng trưởng lợi nhuận của mình thông qua việc mang lại sự hài lòng tối đa và các dịch vụ tốt nhất có thể đến với tập khách hàng mục tiêu của họ. KFC mong muốn có những khách hàng trung thành mà khi thưởng thức KFC một lần nữa thì sẽ còn quay lại sau đó để thưởng thức món ăn của họ. Với mong muốn mang lại sự vui nhộn cho tất cả mọi người, KFC với không gian mát lạnh, tường và nội thất được trang trí với những gam màu trẻ trung, nhẹ nhàng gợi sự hiện đại và cả chút cá tính, luôn luôn có âm nhạc là những điều kiện giúp KFC thỏa mãn nhu cầu của đa số giới trẻ. Không ăn nhanh, đi nhanh như các bạn trẻ trên thế giới, người dân Châu Á đã xem KFC như một nơi thú vị để tận hưởng cuộc sống cũng như chia sẻ niềm vui với bạn bè. Một các đùi gà nóng hổi ngon lành, những thanh khoai tây chiên vàng óng và một ly Pepsi mát lạnh sẽ làm cho câu chuyện của bạn với bạn bè thêm phần hấp nhiều năm gây dựng và nắm bắt được một vị trí tuyệt vời như vậy trên thị trường quốc tế. KFC sẽ quyết định mở rộng thực đơn với các món ăn phong phú hơn. Nhằm sáng chế ra những món ăn mới lạ, với hương vị hấp dẫn và quyến rũ hơn nữa Điển hình như món gà rán không xương mới ra mắt gần đây.Để thiết lập vị trí của họ như là chuỗi nhà hàng Fast food hàng đầu phương Tây western quick service restaurant, KFC phải khẳng định chất lượng của mình thông qua dịch vụ và các sản phẩm làm từ gà dựa trên tiêu chí ngon và sáng cung cấp một trải nghiệm ăn uống thoải mái, với dịch vụ thân thiện và nhanh chóng, ở một vị trí sạch sẽ và thuận tiện. Lúc nào cũng vậy, họ luôn phải tận tâm trong việc cung cấp dịch vụ tuyệt vời và làm hài lòng khách hàng như những gì họ đã đề ra trước đó trích nguyên văn “Đam mê của chúng tôi, với tư cách là một công ty nhà hàng, là đặt một nụ cười trên khuôn mặt của tất cả mọi người trên toàn thế giới, làm hài lòng khách hàng mỗi khi họ ăn và làm nó tốt hơn bất kỳ các doanh nghiệp nào khác”.Dựa theo tầm nhìn và mục tiêu của KFC, ta có thể rút ra được 4 chỉ tiêu mà KFC cần phải thực hiện được để xây dựng thương hiệu theo một cách hoàn hảo nhất. Đó chính là Luôn cung cấp chất lượng và giá trị vượt trội trong các sản phẩm và dịch vụ. Duy trì cam kết đổi mới để cải tiến và tăng trưởng liên tục. Phấn đấu để luôn luôn là người dẫn đầu trong một thị trường luôn liên tục thay đổi. Và mục tiêu cuối cùng là tạo ra lợi nhuận tài chính vượt trội nhằm mang lại lợi ích cho cả chủ sở hữu lẫn nhân viên. Mục tiêu dài hạn của KFC KFC đã đặt ra nhiều mục tiêu mà thương hiệu đang nỗ lực thực hiện và khao khát muốn hướng tới trong tương lai bao gồm Tăng trưởng thị phần của thương hiệu KFC trong mảng đồ ăn nhanh; Cải thiện tỷ suất lợi nhuận hàng năm để tài trợ cho sự tăng trưởng của công ty; Trả lại lợi nhuận từ các khoản đầu tư cho chủ sở hữu và người được nhượng quyền; KFC là công ty thương mại chịu trách nhiệm với tất cả các cổ đông; Bằng cách trở thành công ty có trách nhiệm xã hội hơn, KFC hi vọng sẽ thu hút được các nhà đầu tư mới trong khi vẫn giữ được các cổ đông hiện tại Phát triển kinh doanh và chịu được áp lực từ các đối thủ cạnh tranh thức ăn nhanh và các lĩnh vực dịch vụ thực phẩm tương tự khác... Để đạt được những mục tiêu này, KFC phải hoàn toàn dựa vào những chiến lược nội bộ của công ty. KFC mong muốn mở rộng tăng thêm lợi nhuận và phát triển quy mô công ty để gia tăng thêm giá trị thương hiệu. Cũng lúc này khi xâm nhập vào thị trường thế giới, KFC cũng phải đối mặt với vấn đề gia tăng chi phí, sức ép giảm chi phí từ mọi phía và nhất là khi mà các đối thủ cạnh tranh chính trong ngành thức ăn nhanh như ông trùm McDonald luôn đặt mình ở vị trí ưu thế hơn về chi phí và giá cả.
24HMoney đã kiểm duyệt Hai từ trách nhiệm và tự hào dường như đã được khắc sâu trong tư tưởng, triết lý của bà Patricia Marques, Tổng giám đốc Starbucks Việt Nam. Nếu chỉ dùng một từ để mô tả nữ tướng Starbucks Việt Nam Patricia Marques, từ “chất” có lẽ sẽ xuất hiện trong suy nghĩ của nhiều người ngay từ lần đầu gặp bộ tóc tém cá tính cùng phong cách trẻ trung, năng động với nguồn năng lượng luôn tràn đầy mỗi ngày đã giúp bà Patricia tạo cảm hứng cho chính mình, cho cộng sự và cả thực khách của thương hiệu cà phê hàng đầu thế tổng giám đốc ở Việt Nam có khó khăn hơn so với các thị trường khác hay không, thưa bà?Bà Patricia Marques Chắc chắn không dễ nhưng tôi không nghĩ rằng làm CEO ở Việt Nam sẽ khó khăn hơn so với các thị trường khác. Tôi đã làm việc ở nhiều nước, mỗi nước có một đặc điểm, khó khăn và thuận lợi riêng. Tôi đến Việt Nam hơn chín năm trước và ngay lập tức dành tình yêu cho mảnh đất này, đó là lý do tôi quyết định gắn bó với Việt Nam từ đó đến giờ. Phải đối mặt với nhiều thách thức nhưng tôi cũng coi những thách thức đó như phần thưởng cho với một người nước ngoài như bà, đâu là những khác biệt về mặt văn hoá khi mới đến Việt Nam?Bà Patricia Marques Điều đầu tiên khiến tôi hết sức ngạc nhiên là có quá nhiều xe máy trên đường. Số lượng xe máy mười năm về trước dường như gấp đôi so với thời điểm hiện tại khi ô tô lưu thông trên đường cũng tăng lên đáng kể. Giao thông ở Việt Nam lúc đó thực sự quá sức tưởng tượng đối với tôi. Thứ hai có thể là sự ồn ào. Thực ra nhiều thành phố lớn trên thế giới như Bangkok thậm chí còn ồn hơn nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên là việc ồn ào vào ban đêm diễn ra khá phổ biến tại Việt Nam mà không bị cấm. Chẳng lạ gì nếu ra đường vào 3 giờ sáng nghe thấy tiếng nhạc, mọi người hát hò, tiệc những khác biệt về mặt văn hoá có ảnh hưởng đến cách bà lãnh đạo doanh nghiệp?Bà Patricia Marques Một điều chắc chắn là chúng tôi có văn hoá Starbucks và chúng tôi muốn phát triển, nhân rộng văn hoá này. Còn nhớ những ngày đầu mới đặt ra các tiêu chuẩn, quy tắc như chào mừng khách hàng đến Starbucks, nhiều người đã khuyên không nên áp dụng vì không ai làm vậy ở Việt Nam. Tôi vẫn quyết thực hiện vì muốn đảm bảo tất cả khách hàng của chúng tôi ở Việt Nam đều được chào đón như cách những khách hàng của Starbucks trên thế giới được chào đón. Và chúng tôi đã làm trong những khác biệt về văn hoá tác động đến tôi khá nhiều là thói quen thay đổi công việc của giới trẻ Việt. Theo tôi quan sát, người trẻ có xu hướng đổi việc một lần sau khoảng sáu tháng. Trong khi đó, sinh viên làm việc bán thời gian tại nhiều công ty tôi từng làm ở nước ngoài có xu hướng duy trì công việc trong vòng 4-5 năm cho đến khi tốt nghiệp, miễn là không ảnh hưởng đến việc học của cách lãnh đạo mà bà xây dựng từ trước đến nay là gì?Bà Patricia Marques Tôi rất coi trọng tính đúng giờ. Tôi cũng tôn trọng suy nghĩ, cách nhìn nhận cũng như chất riêng của từng cá nhân. Một đội ngũ hoàn hảo luôn cần có sự đa dạng, không thể hy vọng tất cả mọi người cùng có một góc nhìn, một tính cách bởi có người nói ít, người nói nhiều, có người thích dẫn dắt còn có người lại thích nghe theo. Không cần biết nhân viên có bao nhiêu giá trị nhưng điều quan trọng nhất với tôi là họ phải thể hiện được giá trị tốt nhất của mình ở mức tốt nhất để có thể kết hợp với các cá nhân khác nhằm tạo nên một đội ngũ mạnh mẽ và mang lại kết quả kinh doanh tốt nhất. Tôi luôn luôn thúc đẩy mỗi người thể hiện được giá trị, bản sắc riêng của mình thay vì áp đặt một suy nghĩ, một nhận thức cho tất cả mọi cũng luôn nhận thức rõ ai là người bỏ tiền đầu tư vào mô hình kinh doanh này và biết được trách nhiệm của mình để từ đó xác định rằng từng hành động, bước đi phải mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư. Tôi xác định đi làm không chỉ để nhận lương mà phải là người có trách nhiệm cao nhất khi các nhà đầu tư đã tin tưởng giao việc vận hành kinh doanh cho đâu là triết lý kinh doanh của bà?Bà Patricia Marques Với tôi, phải kinh doanh thế nào để luôn cảm thấy tự hào. Để hài lòng với chính mình quan trọng hơn rất nhiều lần so với việc nhận lương cao, chức lớn hay nhiều lợi ích khác. Sự hài lòng là khi mình làm tốt một điều gì đó, hoàn thành tốt công việc. Tôi cũng luôn luôn nỗ lực làm đến nơi đến chốn chứ không thích làm nửa vời. Đặc biệt, tôi rất coi trọng đạo đức trong kinh doanh, nhất là tính minh bạch. Đạo đức trong kinh doanh và minh bạch ở đây không chỉ về chống hối lộ hay chống gian lận mà còn là sự công minh trong cách đối xử, làm việc với nhân dụ, khi một nhân viên liên tục không hoàn thành công việc và mắc nhiều lỗi, sự công bằng với tôi là phạt hoặc thậm chí cho nghỉ việc. Việc “khoan dung” và cho họ cơ hội thứ hai sẽ không công bằng với những người còn lại là những người có đóng góp tốt hơn và luôn hoàn thành tốt công việc. Gắn thêm một người không thực hiện đúng theo tiêu chuẩn lên trách nhiệm của những người còn lại là một sự không công là một ví dụ khá điển hình trong câu chuyện mang lại trải nghiệm tốt cho khách hàng. Vậy những trải nghiệm đó diễn ra một cách tự nhiên hay vốn dĩ nằm trong chiến lược của Starbucks?Bà Patricia Marques Những giá trị này có thể coi là chiến lược nhưng cũng có thể xem là bản chất mà thương hiệu đã có sẵn. Điều này cũng diễn ra như trong một gia đình, bố mẹ dạy sao thì con cái sẽ lớn lên như vậy. Tôi lớn lên trong môi trường Starbucks và điều đó đã ảnh hưởng đến tôi rất nhiều trong câu chuyện tạo trải nghiệm cho khách hàng. Hai mươi năm về trước, khi nhân viên các hãng khác phải xuay sở không biết xử lý ra sao mỗi lần khách hàng không hài lòng với một ly nước thì nhân viên Starbucks đã được trao quyền để làm lại ly nước đó mà không cần xin phép trưởng ca hay cửa hàng trưởng. Họ không cần mất thời gian báo cáo, điền câu trả lời cho các bảng hỏi và mô tả lại diễn biến sự là một trong những điều tôi đánh giá cao và mang theo như hành trang trong công việc của mình để đến khi tới Việt Nam bảy năm về trước, tiêu chuẩn làm hài lòng khách hàng là một trong những điều được tôi ưu tiên hàng đầu. Trước đây, chính nhân viên được trao quyền còn ngạc nhiên và ngỡ ngàng vì phải mất chi phí làm thêm một ly cà phê trong khi doanh thu không có nhưng bây giờ đã quen tuyển dụng, tôi không quan trọng ứng viên có kỹ năng hay không, có làm được một cốc cà phê latte đẹp hay không vì những điều đó hoàn toàn có thể đào tạo được. Tinh thần và thái độ phục vụ khách hàng, luôn nghĩ cho khách hàng là thứ tôi luôn tìm kiếm ở các ứng Nam được đánh giá là đang trong thời điểm “vàng” của startup. Bà có lời khuyên cho nào cho người trẻ nói chung và các bạn trẻ đang có ý định khởi nghiệp trong cùng lĩnh vực?Bà Patricia Marques Đừng dễ dàng từ bỏ ước mơ nhưng cũng cần có sự ổn định. Sáng tạo cần nằm trong tầm khả năng chứ không phải cứ đi kinh doanh mới là sáng tạo. Sáng tạo mà đi quá những khả năng và giá trị cốt lõi của chính bản thân thì đôi khi sẽ không còn là mình nữa. Nhiều người xin nghỉ việc giải thích rằng cần tìm những thử thách mới nhưng thực ra nếu hiểu thật sâu công việc thì sẽ thấy còn rất nhiều thử thách cần vượt qua. Một mảng trong doanh nghiệp có 5 đầu việc đã được hoàn thành nên các bạn cho rằng đã hết thử thách nhưng vấn đề được đặt ra là các bạn có thật sự hiểu hết được 5 đầu việc đó hay không, có thấy được hết thử thách hay chưa. Đa phần giới trẻ đang chỉ hiểu phần ngang mà chưa thấy được phần sâu. Với bà Patricia, giá trị lớn nhất khi làm lãnh đạo ở Starbucks là được cảm thấy tự hàoVới các bạn đang có ý định kinh doanh, cần cảm thấy tự hào khi phục vụ sản phẩm của mình cho dù hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào. Nhân viên ở Starbucks đều rất tự tin và tự hào với những gì mình làm. Nhiều doanh nghiệp từng mời tôi qua làm nhưng tôi không qua vì dù lương cao nhưng lại không có được sự tự tin và tự hào như khi làm việc ở Starbucks, đó là thứ giúp tôi thúc đẩy kinh doanh tốt làm kinh doanh phải biết được cái gì thúc đẩy mình cố gắng làm tốt từng ngày, đam mê của mình là gì. Nếu chỉ làm vì lợi nhuận thì có thể xong việc nhưng khó đưa doanh nghiệp lên được một tầm cao bà, các nhà lãnh đạo nước ngoài tại Việt Nam sẽ cần thể hiện vai trò như thế nào trong câu chuyện xây dựng một Việt Nam hùng cường?Bà Patricia Marques Với những cơ hội đang mở ra ở Việt Nam, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp nước ngoài đang tìm đến đây nhiều hơn và tôi hy vọng họ sẽ có những anh hưởng tích cực. Những lãnh đạo doanh nghiệp người nước ngoài như tôi cần có trách nhiệm với các thế hệ doanh nhân trẻ, thúc đẩy họ phát triển cho dù chúng tôi có làm việc ở Việt Nam, Campuchia, Lào hay Thái thực lòng tin rằng khi đảm nhận một vị trí lãnh đạo, cần phải nhận trách nhiệm với những người đang nhìn và đặt hy vọng vào người lãnh đạo những doanh nghiệp có CEO nước ngoài, phải sẵn sàng tinh thần để đào tạo những thế hệ người Việt trẻ có khả năng đảm nhiệm trọng trách và thay thế họ, để Việt Nam sẽ được dẫn dắt và phát triển bởi chính những con người Việt tài năng xuất bảy năm, bà có xem mình là người Việt Nam?Bà Patricia Marques Tất nhiên rồi! Khi mọi người hỏi tôi “bà đến từ đâu”, tôi bảo “tôi đến từ Việt Nam” và họ rất ngạc nhiên. Ừ thì tôi không phải là người Việt nhưng tôi đến từ Việt Nam, TP. HCM là nhà của tôi. Tôi nói chuyện với em gái và em tôi bảo “trời ơi, chị đã thành người Việt rồi đấy”. Xin cảm ơn bà!
Lương Văn Can 1854-1927, một nhà chí sĩ thời thuộc Pháp, từ đầu thế kỷ 20 đã khẳng định “Nhà buôn cần có đủ thương đức thương tài mới cạnh tranh được với tư bản thế giới”. “Thương đức – thương tài” – hai chữ đó đã gói gọn triết lý về đạo đức kinh doanh cho người Việt học Lương Văn Can cụ cử Can và triết lý về đạo đức kinh doanh cho người Việt Ảnh Bùi Thụy Đào Nguyên chụp lại, Wikipedia, Public DomainMỗi nghề đều có một cái “đạo”, hay còn gọi là một triết lý riêng cho nghề. Làm nghề kinh doanh buôn bán không chỉ là làm giàu cho bản thân mà còn cho cả xã hội. Trong hai cuốn sách quý giá viết cho thương giới Việt là “Kim cổ cách ngôn” và “Thương học phương châm”, cụ cử Can đã khẳng định “Nhà buôn cần có đủ thương đức thương tài mới cạnh tranh được với tư bản thế giới”. “Thương đức – thương tài” – hai chữ đó đã gói gọn triết lý về đạo đức kinh doanh cho người Việt học – Kinh doanh chính là phụng sự xã hộiKhông ít người kinh doanh nhưng không hiểu được thấu đáo ý nghĩa công việc mà mình đang làm, hoặc hiểu một cách sai lệch. Kinh doanh nhất quyết không phải kiếm lời một cách bất chính, chộp giật, lường gạt, mà “hai chữ kinh doanh phải xem xét cho biết nghĩa rộng lớn”. Cụ cử Can cho rằng, những người buôn gạo mà chỉ mong giá gạo đắt, buôn vải mà chỉ mong giá vải cao, tấm lòng không thoáng đãng bình từ, mà mua thừa bán thiếu, làm hàng giả để đánh tráo với hàng thật, đều bởi tại lòng tham quá nặng. Người có lòng tham như thế, dẫu được lợi đến đâu, nhưng “xét kỹ ra giàu nghèo có số…. mà đạo giời cho phúc người thiện, bắt vạ người dâm, đời có người buôn bán khởi gia mà con cháu chẳng được hưởng phúc đầy, thực bởi thế vậy.”Như vậy, Lương Văn Can khẳng định buôn bán là một nghề lương thiện và chân chính – đó là một nguyên tắc, một cái đạo cao nhất của nghề kinh doanh. Cụ cử Can cực lực lên án những kẻ gian dối trong kinh doanh “bán gạo mà đổ thêm nước vào, bán muối mà trộn thêm vôi vào, bán sơn mà trộn thêm dầu vào, bán thuốc mà đổi thứ khác vào”. Cho dù ở thời nào, đó đều là sự gian dối, không sớm thì muộn sẽ bị tẩy chay và loại khỏi thương cổ Hà Nội xưa Ảnh Souvenir de Hanoi, Wikipedia, Public DomainLương Văn Can cũng bày tỏ quan điểm không được coi đồng tiền làm mục đích duy nhất trong kinh doanh vì nếu tham lợi sẽ nảy sinh những mánh trá, thiệt hại tới người tiêu dùng và lâu dài thì đó là hành động hủy diệt chính mình. Trong việc buôn bán, không nên lúc nào cũng chỉ chăm chăm kiếm lợi cho mình mà phải biết nghĩ đến cái lợi cho người. Cụ viết “Việc gì trái cái bụng lương tâm mình thì không nên làm, việc gì trái công lý thì không nên làm, việc gì hại người thì không nên làm, việc gì gây nên ác nghiệp thì không nên làm.”Như vậy, kinh doanh không chỉ là thu về nguồn lợi cho cá nhân mà còn là đem lại những lợi ích cho cộng đồng, xã hội. Những quan điểm về nghề kinh doanh của cụ có thể khái quát thành một cái Đạo Kinh doanh chính là phụng sự xã – Kinh doanh phải minh bạch và chính đángTheo Lương Văn Can, của cải, tiền bạc là rất quan trọng, nhưng những gì thu về từ việc buôn bán phải chính đáng. Những của cải chính đáng thì việc chi tiêu mới đúng người đúng việc. Ngay cả người xuất thân trong nghèo khó làm giàu cũng phải đi bằng con đường ngay thẳng. Người không có của cải chưa hẳn là nghèo, nếu như trong tay họ sở hữu một cái nghề chân chính. Nghề nghiệp vững vàng là một món của cải quý và lâu cổ Hà Nội xưa Ảnh Wikipedia, Public Domain3 – Cần kiệm là cái đạo lớn của người kinh doanhCụ cử Can đưa ra một triết lý “Cay đắng siêng năng là con đường để tiến lên thành tài đó, một bước tiến lên một bước rồi ra tiến bộ vô cùng.”Sự tiến phát triển, thành công của bất cứ nghề nghiệp nào cũng đều phải trải qua sự khổ công, sự phấn đấu. Một trong những điều quan trọng của người kinh doanh là tận tụy với nghề, dồn hết tâm sức vào con đường mình đã chọn lựa, không ngừng học tập, trau dồi kiến thức. “Tài cán người ta có hai giống, một là học vấn, hai là thực hành. Tài cán học vấn như nông lâm, kinh tế, sổ sách, công nghệ, trong nhà trường ngày thường dạy học, tài cán thực hành thời khác thế, như đã nhận một chức nghiệp gì thì phải nghiên cứu những sự vụ gì đó có quan thiết đến chức nghiệp mình, suy xét tình hình cho kỹ.” Và “dẫu làm kỹ nghệ nhỏ, cũng cốt phải dùng cả khí lực, cũng cốt phải dùng công phu nhẫn nại mới được.”Đối với người kinh doanh, khi kiếm được tiền nếu hoang phí xa xỉ thì bao nhiêu rồi cũng tiêu tán hết. Sự xa xỉ là điều mà Lương Văn Can phê phán rất mạnh mẽ, vì theo cụ “cái nguyên nhân nhớn, quốc dân sở dĩ suy yếu là tự xa xỉ mà đến.” Sự xa xỉ cũng chính là mẹ đẻ của tính tham lam trong mỗi con người. Cụ khuyên các nhà buôn “phàm cái gì cũng phải liệu số thu vào rồi hẵng tiêu ra; chớ có tranh thể diện hão mà thành hư phí đi mất nhiều.”4 – Sử dụng đồng tiền để phục vụ lại xã hộiTheo cụ cử Can, tiết kiệm là một đạo cần thiết đối với người làm kinh doanh, nhưng cũng phải biết cách tiêu tiền, biến những đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình thành những giá trị “… chỗ nên tiêu thì dẫu nhiều cũng đừng tiếc, chỗ không nên tiêu thì dẫu ít cũng đừng hoang phí, thế thời cơ nghiệp chẳng nát mà ân đức mới rộng, như cứu người nạn, giúp người ngặt, cho người nghèo, thương người khổ, những việc thiện đó là chỗ nên tiêu tiền đó, như phồn hoa tốt đẹp kiêu sa dâm đắm những việc ác ấy là chỗ không nên bỏ tiền đó, hay chứa của mà lại hay bỏ của thế là ta sai khiến được của…”Lương Văn Can khuyên các nhà buôn cần biết dùng đồng tiền đã kiếm được để phục vụ xã hội. Nhìn lại cuộc đời của cụ, chúng ta có thể thấy đó là một minh chứng sống động cho triết lý này những đồng tiền gia đình cụ tích cóp từ việc kinh doanh đã quay lại với xã hội, góp phần vào những việc ích nước lợi vậy, có thể nói, ngay trong những ngày đầu hình thành và phát triển, thương giới Việt đã có được một cái “đạo”, một đường lối khá rõ ràng. Đó quả là một may mắn rất đáng quý. Và người có công đầu trong việc xây dựng đạo kinh doanh cho người Việt không ai khác chính là danh sĩ họ Lương. Các thế hệ sau cảm phục cụ, một người chưa từng trải qua bất kỳ một trường lớp về kinh tế nào song đã viết sách rất bài bản dạy buôn bán, thiết lập nên một hệ tư tưởng riêng cho giới kinh doanh. Đây không phải là những bài học mang tính “sách vở” bởi chính cụ là người đầu tiên đem chính những kiến thức này – cái “đạo” này – ra thực thi và đã thành giai đoạn đầu thế kỷ 20, lần đầu tiên các nhà kinh doanh của Việt Nam hội nhập kinh tế với thế giới, có thể tạm coi như vậy, và ngay lập tức đã xây dựng được một con đường đi đúng đắn để tranh đua với các nhà tư bản nước ngoài. Những triết lý về đạo đức kinh doanh mà Lương Văn Can đã chia sẻ với thương giới cách đây ngót thế kỷ chính là những bài học vượt thời gian mà giới doanh nhân ngày nay vẫn rất nên tìm hiểu, chiêm MinhTham khảo “Lương Văn Can – Xây dựng đạo kinh doanh cho người Việt”Xem thêmĐạo kinh doanh của cổ nhân Tài sinh từ đạo, lợi nhận từ nghĩaMời xem video
triết lý kinh doanh của người việt